ÔNG PHẠM HOÀNG QUÂN

DIỄN TỪ NHẬN GIẢI NGHIÊN CỨU

Diễn từ nhân dịp nhận giải nghiên cứu của Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh

                                                                                                            Phạm Hoàng Quân

 

Kính thưa Bà Nguyễn Thị Bình, Chủ tịch Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh,

Kính thưa toàn thể quý vị.

    Tôi rất hân hạnh được dự buổi lễ trang trọng này, và cũng thật bối rối khi được quý vị trong Hội đồng xét tặng giải thưởng trao cho giải nghiên cứu Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh. Trước đây mấy hôm và cho đến giờ này tôi vẫn băn khoăn cảm thấy khó diễn đạt những suy nghĩ của mình thành lời lẽ sao cho phù hợp với khung cảnh này.

     Tôi có hơi bất ngờ khi những bài nghiên cứu lịch sử thuộc một chuyên đề hẹp của mình lại được sự lưu tâm của quý vị, để hôm nay được tiếp nhận rộng rãi thông qua giải thưởng này. Điều này cho thấy tính khách quan và tinh thần vì học thuật của quý vị đã đề cử và của Hội đồng khoa học, biết rằng quý vị chỉ coi đây là trách nhiệm, nhưng tôi vẫn xin gởi đến tất cả lời cảm ơn chân thành.

     Tôi được sinh ra trong một gia đình không có truyền thống nghiên cứu, bản thân lại không được may mắn học hành chính quy, phương pháp nghiên cứu, các ngành khoa học liên quan và chữ Hán đều mày mò tự học. Ước nguyện của tôi lúc vào đời lại thiên về bộ môn mỹ thuật, một dịp tình cờ, tôi nhận viết một khảo cứu về lịch sử hội họa và thư pháp của Hoa kiều ở Sài Gòn- Chợ Lớn, những tưởng vì sự yêu thích nhất thời viết lách cho vui, không ngờ đó là điểm khởi đầu để tôi gắn với nghiệp nghiên cứu cho đến nay.

    Có lẽ một phần do cá tính, một phần do ảnh hưởng bởi đặc thù của bộ môn mỹ thuật, tôi đã chọn nghiên cứu độc lập làm hướng đi cho mình. Nhân đây tôi xin chia sẻ với quý vị đôi điều về những thuận lợi và trở ngại của một người nghiên cứu đơn độc.

    Có 3 điều rất hay. Đầu tiên là tôi không phải dự các buổi họp, không phải giao tiếp lễ lạt, có nghĩa là dành được hết thì giờ cho việc đọc sách, giữ được mạch suy nghĩ không bị gián đoạn. Kế đến là luôn được làm việc trong trạng thái không bị áp lực, không bị khống chế bởi thời gian, tôi được chủ động điều độ thời gian trong việc làm của mình. Điều hay thứ ba là tôi được chọn lĩnh vực hoặc đề tài mà mình thích nhất, và trong đề tài ấy tôi lại được tự xác định việc nào cần phải làm trước. Ba điều đơn giản vậy thôi nhưng tôi cảm thấy thật là hạnh phúc khi giữ được chúng.

    Cũng có nhiều trở ngại. Nghiên cứu độc lập phải đương đầu với không ít khó khăn, thứ nhất là chuyện giải quyết nhu cầu cuộc sống cơ bản, giải quyết được vấn đề này thì kế đến là tài liệu sách vở, tư liệu không phong phú dồi dào thì kiến thức hạn hẹp, làm sao nghiên cứu sâu. Mua sách thì tốn kém vô biên, hoàn cảnh của tôi nhiều lúc khát sách tợ như doanh nghiệp khát vốn, tuy nhiên lần hồi tích góp, bè bạn yểm trợ và cộng thêm sự hào phóng của nhiều thư viện điện tử quốc tế, vụ này cũng tạm ổn. Trở ngại vừa lớn vừa khó là việc tìm tài liệu ở thư viện công, nước ta trước giờ nói chung là khắt khe đối với những người không thuộc cơ quan nghiên cứu công, nên đã một thời gian dài tôi không được tham khảo nguồn này, gần đây tuy có được vài ngoại lệ, nhưng tiếc là những ngoại lệ này đến chậm. Những trở ngại ấy tuy không thể làm nản lòng, nhưng có điều đáng tiếc là một số công trình phải chịu mất nhiều thời gian hơn dự tính.

     Từ hoàn cảnh của mình, tôi thấy rằng dù cá nhân hay tập thể, muốn có thành tựu nghiên cứu tốt phải hội đủ 3 yếu tố là: tinh thần khoa học, năng lực nghiên cứu và sách vở tài liệu, hay nói rõ hơn, sách cùng với tài liệu là vốn liếng cơ bản, năng lực là tay nghề là trình độ và tinh thần khách quan khoa học là không thiên về cảm tính hoặc bị chi phối bởi tinh thần dân tộc.  

     Trong lúc nghiên cứu về lịch sử biển Đông, tôi chỉ đơn thuần vì mục đích muốn biết rõ sự thật, vì tò mò, tôi tìm hiểu, kê cứu, hệ thống và đối chiếu so sánh nguồn sử liệu Trung Hoa chỉ vì muốn hiểu biết cặn kẽ và tường tận những ghi chép trong sử liệu thực. Lúc đọc hiểu tư liệu cũng như lúc phân tích chuỗi sự kiện, tôi không nghĩ mình là người dân của một quốc gia nào, lúc này chỉ có tính khách quan của khoa học dẫn dắt. 

    Điều băn khoăn khó nói mà tôi cũng muốn chia sẻ là khi nhìn kỹ lại hoạt động học thuật sử học trong bối cảnh hiện nay, trình độ nghiên cứu lịch sử nói chung hoặc nghiên cứu chuyên sâu các đề tài lịch sử liên quan đến biển Đông nói riêng, chúng ta còn thua khá xa các nước, mà trong đó đáng ngại đáng lo nhất là chưa theo kịp trình độ của người Trung Quốc.

    Mấy mươi năm qua, nền sử học nước ta đã để quá nhiều khoảng trống trong nghiên cứu cơ bản, riêng ở lĩnh vực nghiên cứu biển Đông, giới sử học trong nước hầu như chưa làm tròn trách nhiệm ở nhiều mặt, chỉ lướt qua công việc dịch thuật, mà sản phẩm của nó là nguồn căn cứ thiết yếu trong nghiên cứu đối sánh, đã thấy còn quá nhiều điểm đáng lo ngại.

    Chúng ta chưa có một tổng tập bản dịch và chú giải tư liệu lịch sử Trung Quốc, nhằm để nắm rõ thực hư ý nghĩa của sử liệu;

    Chưa dịch công trình nghiên cứu tiêu biểu nào của học giới Trung Quốc hiện nay, nhằm để nắm bắt được thông tin mới cũng như theo dõi đà tiến triển qua trình độ học thuât của họ; Lại cũng chưa dịch hoặc dịch quá ít ỏi các bài viết, các sách nghiên cứu về quan hệ Trung - Việt, quan hệ Trung – Ngoại, kể từ thời các học giả Viện Viễn Đông bác cổ Pháp khởi sự cho đến nay, trong khi các nghiên cứu này chứa đựng rất nhiều chi tiết liên quan đã được phân tích, v.v;

    Chưa dịch các sách công cụ cơ bản phục vụ cho nghiên cứu, do người Trung Quốc soạn, và mặt khác, cũng chưa thấy dịch hoặc giới thiệu, phổ biến những sách công cụ đồng dạng nói trên bằng Anh ngữ do học giới phương Tây biên soạn.

     Vấn đề nghiên cứu lịch sử biển Đông nói trên thật ra chỉ là một mảng nhỏ trong hoạt động học thuật sử học, nhưng nó cũng phản ánh tình hình chung. Nhìn bao quát, sự thiếu hụt kiến thức bên ngoài đã dẫn đến tình trạng giới sử học cứ mãi nói chuyện trong nhà. Trong khi ở Trung Quốc hiện nay, học giới đã tiến đến hình thành nhóm chuyên gia “dịch bình”, quy tụ những người vừa có nghiệp vụ nghiên cứu vừa rất giỏi ngoại ngữ, chuyên lo chuyện đọc và phê bình riêng các bản dịch sách nghiên cứu sau xuất bản, họ muốn những công trình nghiên cứu tầm cỡ bên ngoài phải đến tay học giới trong nước bằng một bản dịch thật chuẩn xác thật hoàn hảo. Trong khi ở Phnom Penh hiện nay, trong nhà sách ngoại văn tại số 1 đường Norodom, sách nghiên cứu sử nổi bật trong nhiều loại sách nghiên cứu khác, nhẩm tính số lượng nhiều hơn ở Sài Gòn gấp 7 hoặc 8 lần.

     Lịch sử học thuật sử học Việt Nam thật sự đã để lại nhiều khiếm khuyết, đã để xảy ra tình trạng thiếu hụt kiến thức nền trầm trọng đến mức báo động, lỡ lầm này buộc những người nghiên cứu sử phải nhận trách nhiệm. Trách nhiệm này là trách nhiệm đối với học thuật. Vì rõ ràng là không thể lấy lý do bị ràng buộc bởi hệ tư tưởng để bào chữa tất cả những khuyết điểm ấy, bởi trong đó rất nhiều vấn đề thuần khoa học. Chừng nào mỗi người tâm huyết cùng nỗ lực chung tay khắc phục khiếm khuyết của quá khứ, thì nền sử học mới có thể lấy lại thăng bằng, chừng nào người nghiên cứu sử - bất kể công hay tư- ngoài sự miệt mài dốc sức còn nghĩ thêm một điều lấy cạnh tranh học thuật với bên ngoài làm thú vui, thì lúc ấy học thuật sử học mới có đà phấn phát.

     Theo kịp mặt bằng học thuật trong khu vực và thế giới có lẽ là mục tiêu không ngoài lý tưởng và ý nguyện của bậc tiền bối mà giải thưởng này vinh dự mang tên. Nên tôi nghĩ rằng, giải thưởng này đối với riêng tôi và học giới nói chung, ngoài sự biểu hiện mối cảm thông và sẻ chia trong tinh thần trách nhiệm của một bộ phận xã hội, nó còn là động lực thúc đẩy mỗi người đã chọn nghề nghiên cứu phải dốc tâm tận lực, nương theo khoa học để gặt hái tri thức cho mình và cho cộng đồng, để mỗi công trình được viết ra càng về sau càng có giá trị học thuật cao hơn và càng có tầm ảnh hưởng sâu rộng hơn.  

 Xin cảm ơn quý vị đã lắng nghe.