DIỄN TỪ VINH DANH

GIẢI VĂN HÓA PHAN CHÂU TRINH 2018

 

NGUYÊN NGỌC

 

Giữ lời hẹn đúng từ ngày này năm trước, chúng ta lại gặp nhau, cũng trong căn phòng ấm cúng này, để chào mừng những vị tân khoa của giải Văn hóa Phan Châu Trinh năm 2018, năm thứ 11 của Quỹ và của Giải. Cho đến giờ phút này, chúng tôi nghĩ đã có thể nói lần nữa chúng ta lại có được một mùa giải đẹp.

Trước hết xin nói về giải dịch thuật. Hẳn chúng ta còn nhớ Giải Phan Châu Trinh đã bắt đầu bằng một giải dịch thuật, rồi sau đó mới mở rộng thêm các hạng mục khác, và điều ấy không hề ngẫu nhiên. Ngay từ đầu, chúng ta đã coi việc chuyển cho được sang tiếng Việt, cho người Việt và xã hội Việt, từng bước mà khẩn trương, từng bước dần cho đến toàn bộ tài sản trí tuệ tinh hoa của nhân loại là công việc vô cùng quan trọng, tới mức có tính quyết định đối với phát triển của đất nước. Cũng là thực hiện tâm nguyện khai sáng từ hơn trăm năm trước của Phan Châu Trinh. Dịch giả Nguyễn Tùng, người nhận giải ở hạng mục này năm nay có một câu nói tôi xin phép nhắc lại ở đây. Ông nói: “… chừng nào Việt Nam chưa dịch được hàng trăm cuốn sách được xem là tinh hoa của thế giới về triết học, nhân học, xã hội học v.v. thì chừng đó Việt Nam chưa có được một nền đại học đúng nghĩa về xã hội và nhân văn …” Quả hoàn toàn đúng, và không chỉ đối với lĩnh vực xã hội nhân văn ở Việt Nam, cũng không chỉ đối với đại học ở nước ta. Hẳn là từ mối lo sâu xa và đầy trách nhiệm và một tâm thế như vậy mà Nguyễn Tùng đã bắt tay vào công việc dịch thuật vốn không phải là chức trách chính của ông, lại hết sức khó khăn, bởi ông luôn chọn dịch những tác phẩm quan trọng nhất nhưng cũng vào loại khó nhất của những tác giả kinh điển quan trọng nhất trong lĩnh vực dân tộc học, nhân học, xã hội học, kinh tế học. Những cuốn sách như vậy là thiết yếu để đặt nền tảng căn bản cho khoa học xã hội và nhân văn trong nước. Bắt đầu là cuốn “Luận về biếu tặng. Hình thức và lý do của sự trao đổi trong các xã hội cổ sơ” của Marcel Mauss, người được coi là cha đẻ của ngành nhân học ở Pháp và là một trong những người sáng lập ngành nhân học trên thế giới. Mauss nhận xét rằng hành vi biếu tặng và đáp tặng trong các xã hội cổ xưa là theo nguyên tắc tương hỗ, có đi có lại, chính là hình thức kinh tế thị trường thời cổ sơ, nó thay thế hoàn toàn hệ thống mua bán bằng sự biếu tặng lẫn nhau … Bằng nhận xét tinh tế và sâu sắc, Mauss phê phán và bác bỏ việc đề cao một cách máy móc những lô gích của nền kinh tế thị trường hiện đại … qui giản con người chỉ còn là những “con vật kinh tế”. Về thực tiễn, cuốn sách này đã đóng góp lớn giúp vượt qua quan niệm từ thiện và bố thí trong các chính sách xã hội, và góp phần hình thành hệ thống bảo hiểm xã hội hiện đại ở Pháp và các nước tiên tiến ngày nay. Bản dịch cuốn sách gối đầu giường của mọi nhà nhân học này được Nguyễn Tùng thực hiện hết sức nghiêm cẩn, đặc biệt với một lối văn trong sáng, dễ hiểu vốn là không hề đơn giản đối với lối viết của Mauss. Ấn bản được NXB Tri thức công bố còn bao gồm một bài Claude Lévy-Strauss “Dẫn nhập vào sự nghiệp nghiên cứu của Marcel Mauss” và bài “Hướng đến một dân tộc chí về các cung ứng không thông qua thị trường” của nhà nhân học Pháp Florence Weber, cũng do Nguyễn Tùng dịch.

Dịch phẩm tiếp theo của Nguyễn Tùng là cuốn “Định chế tô tem ngày nay” của Claude Lévy-Strauss, người sáng lập nổi tiếng của trường phái cấu trúc luận trong dân tộc học và nhân học. Trước khi đi vào bản dịch, Nguyễn Tùng còn viết một bài giới thiệu dài 52 trang trình bày súc tích những tư tưởng chính của tác giả và ảnh hưởng của thuyết cấu trúc luận và của cuốn “Định chế tô tem ngày nay” đối với giới khoa học xã hội nhân văn trong suốt nửa sau thế kỷ XX. Ngược với B. Malinovski hay Radcliffe-Brown thấy ở việc một tộc người chọn một con thú hay thảo mộc làm tô tem là vì chúng cung cấp cho họ thức ăn, Lévy-Strauss cho rằng họ chọn chúng làm tô tem “không phải vì chúng có thể ‘dùng để ăn’ mà do chúng có thể ‘dùng để tư duy’.” Nghĩa là họ nhận ra ở con thú hay thực vật ấy của tự nhiên một cái mã phản ánh cấu trúc tư duy của chính họ. Vậy nên, theo nhà nghiên cứu Jean-Pierre Vernant, cuốn sách của Lévy-Strauss vượt ra ngoài câu chuyện về định chế tô tem và trở thành gần như một thứ nhập môn cho nghiên cứu nhân học, đòi hỏi nhân học “trong các phương pháp tiếp cận và cả trong triết lý về con người, đi đến những quan niệm cấu trúc luận mới mẻ trong nhân học.”

Nhân đây, xin tiết lộ: Nguyễn Tùng có tâm sự rằng ông dịch “Định chế tô tem ngày nay” là để làm quen thêm với lối viết của Lévy-Strauss, như một kiểu tập dượt, lấy sức, trước khi “tấn công” vào một công việc to lớn, khó khăn hơn nhiều: chuyển được sang tiếng Việt cuốn sách thuộc số những tuyệt tác đỉnh cao và quan trọng nhất của Lévy-Strauss, cuốn “Tư duy hoang dại” (La pensée sauvage), “nếu tôi còn đủ sức và đủ can đảm” – ông nói. Chỉ một ví dụ này thôi chắc đã đủ để cho thấy rõ thái độ, quan niệm và cách làm việc của Nguyễn Tùng đối với dịch thuật khoa học, thật rất đáng để suy nghĩ.

 Dịch phẩm thứ ba quan trọng của ông là một tác phẩm cũng rất khó và khá lạ, cuốn “Xã hội diễn cảnh” của Guy Debord, một tác giả phái tả, phê phán triệt để xu hướng bái vật hóa và sự thống trị của hàng hóa trong khuôn khổ của xã hội tiêu thụ tư bản chủ nghĩa hiện đại. Ngay đối với một tác phẩm rất khó đọc và khó hiểu như cuốn này, Nguyễn Tùng cũng đã tìm được cách chuyển ngữ sang tiếng Việt rất chuẩn xác, trong sáng và dễ tiếp cận. Ông còn góp phần quan trọng cùng một số người khác trong một số dịch phẩm lớn và kinh điển, trong đó có cuốn sách nổi tiếng “Đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản” của Max Weber …

Nói theo cách nào đó, những đóng góp và thành tựu dịch thuật của Nguyễn Tùng vừa được lướt qua chỉ là một phần ở cạnh công vệc chính của ông. Nguyễn Tùng trước hết và chủ yếu là một nhà nghiên cứu dân tộc học và xã hội học. Ông đã làm việc 30 năm ở Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS) với tư cách là nhà dân tộc học và xã hội học, đã giảng dạy ở đại học Sorbonne (Paris), đã tham gia trong hơn 20 năm chương trình nghiên cứu về làng xã ở châu thổ Sông Hồng, đã có những công trình quan trọng được công bố, như “Mông Phụ, một làng ở châu thổ Sông Hồng”, tham gia cuốn “Làng ở châu thổ Sông Hồng, vấn đề còn bỏ ngỏ’, và nhiều công trình khác” … Như vậy, có thể nói cho đúng hơn, đối với Nguyễn Tùng, công việc nghiên cứu khoa học của ông gắn liền chặt chẽ với công việc dịch thuật của ông, sự gắn chặt này tạo cho ông khả năng và thẩm quyền đưa đến cho người đọc Việt Nam những dịch phẩm lớn, với chất lượng và độ tin cậy cao. Trường hợp Nguyễn Tùng còn đặt ra một vấn đề lớn và quan trọng đối với nền dịch thuật, và cả với khoa học Việt Nam: vấn đề sự xuất hiện mô hình những học giả-dịch giả, cho yêu cầu của một nền dịch thuật nghiêm túc và ngày càng cấp thiết, mà chúng tôi đã nhắc đến ở đầu diễn từ này.

Xin trân trọng cám ơn dịch giả Nguyễn Tùng vì cống hiến đặc sắc, và cả vì những vấn đề quan trọng ông đã nêu lên qua sự nghiệp dịch thuật của ông.

Thưa …

Giải Vì Sự nghiệp Văn hóa và Giáo dục năm nay được trao cho một nghệ sĩ: nhạc sĩ Dương Thụ, và một tập thể những người làm sách: Nhóm Nhất nghệ tinh.

Dương Thụ là một nhạc sĩ nổi tiếng. Hãy thử nghe ca sĩ Hồng Nhung, được chính Dương Thụ coi là người hát hay nhất các bài hát của ông nói về ông: “ … hai nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và Dương Thụ viết nhạc rất khác nhau nhưng cùng xuất phát từ suối nguồn tình cảm của tâm hồn. Họ đều là những nhà trí thức với kiến thức văn hóa rộng và sâu sắc, có thể nói ít, hiểu nhiều, sức mạnh trong nhạc và lời mang nội lực đủ để lại trong lòng người nghe một cách sâu nặng mà không cần hình thức quá lộng lẫy hay gây choáng ngợp ...” Thanh Lam thì nói thêm, như muốn cắt nghĩa: “… Tôi cho rằng đó là hồn Việt, triết lý Việt, tinh thần Việt …” Quả vậy, có lẽ nét đặc sắc của Dương Thụ trong sáng tác của ông cũng như ở con người và hoạt động xã hội của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính giản dị, nhẹ nhõm, gần gũi đời sống và văn hóa dân gian, với xu hướng tinh hoa, bài bản, sang trọng, thậm chí vươn tới hàn lâm. Là dân gian thì ông biết cách khai thác đến tận cái tinh hoa của dân gian, là bác học thì ông giỏi làm cho cái bác học đó trở nên gần gũi đến dễ tiếp nhận cho đại chúng và đi vào lòng người. Lại được cộng với một tài năng thật sự về tổ chức, rất khéo léo, tháo vát và hiệu lực. Dương Thụ cũng là người có lòng tin sâu sắc ở sức mạnh của nghệ thuật khi nó đi được vào đại chúng, và phải đi vào đại chúng ở dạng tinh hoa. Bởi nâng cao năng lực thẩm mỹ và tri thức của xã hội, tạo nên đời sống thẩm mỹ và tri thức ngày càng được nâng cao của xã hội là nghĩa vụ đạo đức của nghệ thuật và của người nghệ sĩ chân chính, của nhà văn hóa. Chính vì vậy mà là tác giả của hàng loạt ca khúc nổi tiếng với âm hưởng rất riêng tinh tế và sang trọng, không thể nhầm lẫn, ông còn dành nhiều thời gian, công sức và tài năng cho những chương trình âm nhạc lớn, là người tổ chức, biên tập và tổng đạo diễn Dự án Nửa thế kỷ bài hát Việt Nam, một chương trình tầm cỡ quốc gia đầu tiên tập hợp các tác phẩm tiêu biểu của đủ các dòng nhạc từ Tiền chiến, Lãng mạn, nhạc Sàigòn trước năm 1975, nhạc Cách mạng, nhạc Tình ca hiện đại …; tiếp đó, từ năm 2009, là Dự án đồ sộ Điều còn mãi, một concert âm nhạc thính phòng, bao gồm cả các tác phẩm khí nhạc và ca khúc, được dàn dựng rất công phu với sự tham gia của nhiều nghệ sĩ hàng đầu cùng dàn nhạc Giao hưởng quốc gia Việt Nam, diễn ra định kỳ hàng năm vào dịp 2/9 và kéo dài liên tục trong nhiều năm, gây tiếng vang và ảnh hưởng lớn … Tuy nhiên phải nói rằng, trong hoạt động văn hóa xã hội, đóng góp quan trọng nhất của Dương Thụ là những hoạt động nhằm kết nối giới tinh hoa văn hóa trong và ngoài nước với công chúng, đặc biệt với giới trẻ, giới thiệu những tư tưởng đổi mới, những ý tưởng sáng tạo độc đáo thông qua việc hình thành và tổ chức thành công, vượt qua vô vàn khó khăn, chương trình Cà phê thứ bảy, một chương trình sinh hoạt văn hóa cao cấp, một kiểu salon văn hóa, thu hút những người thực sự có quan tâm đến văn hóa, đến những tư tưởng mới, đến đối thoại, tôn trọng sự khác biệt để cùng suy nghĩ. Từ 2009 đến nay, Dương Thụ đã tổ chức được hơn 800 buổi sinh hoạt Cà phê thứ bảy ở Saigon và ở Hà Nội, với sự tham gia của nhiều nhà văn hóa, khoa học, nghệ sĩ nổi tiếng trong và ngoài nước, thuyết trình và trao đổi về nhiều chủ đề khoa học, nghệ thuật, kinh tế, văn hóa, giáo dục, môi trường … Quả là một đóng góp rất to lớn, một điểm sáng cho ta còn giữ niềm tin và hy vọng, đặc biệt trong tình hình văn hóa xã hội phức tạp và đáng lo hiện nay.

Chúng ta cám ơn Dương Thụ vì cống hiến văn hóa tâm huyết, kiên trì của ông, vì tư duy văn hóa và nghệ thuật đáng để suy nghĩ của ông, cả về một mô hình sống và tổ chức đời sống xã hội một cách có văn hóa, không ồn ào mà sâu sắc và hiệu quả ông đã gợi lên qua hoạt động năng nổ của mình.

Nhân vật thứ hai cùng nhận giải thưởng Vì sự nghiệp Văn hóa và Giáo dục năm nay rất đặc biệt, đó là một tập thể đông đảo gồm hàng trăm chuyên gia và kỹ sư từng du học ở CHLB Đức trước năm 1975, từ nhiều năm nay đã lặng lẽ làm một công việc rất cụ thể, thiết thực, mà vô cùng cần thiết cho đất nước. Chúng ta chưa được biết ai trong số họ ai là người nảy ra ý tưởng đầu tiên, họ đã liên lạc, tập họp, trao đổi cùng nhau như thế nào, tính toán tổ chức lực lượng và công việc ra sao … để đi đến quyết định thành lập một tủ sách lấy tên là “Tủ sách Nhất nghệ tinh” nhằm chọn lọc những sách chuyên ngành có giá trị nhất của NXB Europa-Lehrmittel, tổ chức dịch ra tiếng Việt và phổ biến sâu rộng trong giới đào tạo nghề cao cấp và các trường đại học kỹ thuật ở Việt Nam. Cùng lúc lại dày công biên soạn và liên tục cập nhật một Từ điển thuật ngữ khoa học kỹ thuật, đến nay đã được hơn 20.000 mục từ. Đến nay, Tủ sách đã công bố các sách: Chuyên ngành cơ khí, Chuyên nghành Cơ-Điện tử, Chuyên ngành Điện-Điện tử, Chuyên ngành kỹ thuật ô tô và xe máy hiện đại. Đang và sắp in: Chuyên ngành chất dẻo, Chuyên ngành kỹ thuật hóa học, Chuyên ngành kỹ thuật sinh học, Chuyên ngành kỹ thuật xây dựng, Chuyên ngành kỹ thuật môi trường, Chuyên ngành kỹ thuật may mặc v.v.

Dày kinh nghiệm nghề nghiệp, Nhóm đã chọn lựa những sách chuyên ngành có chất lượng cao của CHLB Đức. Chất lượng dịch các sách cũng rất cao, thỏa ứng các yêu cầu khắc khe của sách chuyên ngành đa lĩnh vực. Nhóm vừa làm việc vừa phát triển, ngày càng tập họp đông đảo chuyên gia các lĩnh vực khác nhau để hỗ trợ việc dạy nghề và du nhập phương pháp vừa học vừa làm rất hiệu quả của CHLB vào Việt Nam. Tất cả các thành viên của Nhóm đều hoạt động tự nguyện và vô vị lợi.

Cộng tác chặt chẽ với NXB Trẻ và Saigon Times Foundation, Tủ sách Nhất nghệ tinh đang có sức lan tỏa mạnh, được các nhà giáo và sinh viên nhiệt tình đón nhận. Không thể không có cảm giác chúng ta đang được sống lại không khí sôi nổi khuyến học và chuộng thực nghiệm do Phan Châu Trinh khởi xướng hơn trăm năm trước. Giải Văn hóa Phan Châu Trinh trân trọng chào mừng Tủ sách Nhất nghệ tinh, một góc thật đẹp của xã hội hôm nay.

Thưa …

Xin được nói tiếp đến Giải Nghiên cứu năm nay, được trao cho hai nhà nghiên cứu Lữ Phương và Phan Cẩm Thượng.

Trong những năm 1960 ở Sài Gòn, Lữ Phương là cây bút chủ lực của tạp chí TIN VĂN, một tạp chí văn nghệ có xu hướng tiến bộ, cương quyết bảo vệ các giá trị của nền văn hóa dân tộc trong bối cảnh chiến tranh có sự can thiệp của ngoại bang. Tác phẩm “Mấy vấn đề văn nghệ” của ông viết năm 1967 sớm cho thấy rõ thái độ của một trí thức dấn thân mạnh mẽ mà trầm tĩnh trong những bối cảnh xã hội phức tạp. Năm 1968, ông tham gia kháng chiến, giữ chức Thứ trưởng Bộ Văn hóa trong Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Sau 1975 ông cho xuất bản “Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam”, một công trình nghiên cứu khách quan, sâu sắc, khác hẳn với những cuốn sách tuyên truyền minh họa dễ dãi trên cùng đề tài. Từ năm 1980 bắt đầu thời kỳ mà chính ông gọi là “mười năm diện bích” để “mọi chuyện trong quá khứ được nhìn lại tận nền móng”, bắt tay đọc lại và nghiên cứu chủ nghĩa Marx một cách cặn kẽ, có hệ thống, từ nền tảng triết học và nhận thức luận, đến các vấn đề cơ bản của kinh tế chính trị học mác-xít, từ đó nhận thức lại mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội mác-xít và chủ nghĩa xã hội hiện thực, giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, các vấn đề của công cuộc “đổi mới”, đặc biệt là tác động văn hóa của “đổi mới” xét như một mô thức phát triển, đồng thời tăng cường trao đổi, thảo luận với các học giả trong và ngoài nước.

Tìm hiểu một cách nghiêm túc sự hình thành, phát triển và tiến hóa của chủ nghĩa Marx qua từng giai đoạn lịch sử, ông nhìn nhận “mô hình Stalin là nguyên nhân sâu xa của sự khủng hoảng hiện nay của chủ nghĩa xã hội hiện thực” và chỉ ra sự “bất toàn của việc du nhập chủ nghĩa Lênin vào Việt Nam.” Từ đó ông đề xuất mô hình mới về xây dựng đất nước trong thời bình bằng cách phải gác lại các kết luận của mô hình cũ để “ưu tiên bảo vệ con người trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa xã hội.”

Lữ Phương khẳng định: “Sự phê phán quá khứ một cách nghiêm trang chẳng hề có ý nghĩa ‘dùng súng lục’ bắn vào cái gì cả, chẳng qua là thái độ cần thiết của con người trưởng thành …”. Ông nói: “Ngay cả sự ra đời của bản thân chủ nghĩa Marx và các trào lưu tư tưởng hiện đại cũng là nhờ có môi trường xã hội ‘nơi đó cái sai không hề bị gọi là tội, cái đúng không hề được gọi là ‘duy nhất đúng’. Và vì thế “đối với một thế giới biết nhạy cảm từng phút từng giờ với những hứa hẹn đổi thay, mọi đường lối mệnh danh là ‘ổn định’ tinh thần cũng chỉ có ý nghĩa là tiêu diệt bản thân đời sống tinh thần.” Ông thẳng thắn kiến nghị: từ bỏ chính sách  đóng cửa, từ bỏ phương pháp cách mạng bạo lực, từ bỏ khái niệm nhà nước giai cấp, xây dựng nhà nước hiện đại bằng hiến pháp và pháp luật, thực hiện thể chế phân quyền, chính đảng cầm quyền giao lại nhà nước cho xã hội …

Trao giải Văn hóa Phan Châu Trinh cho nhà nghiên cứu Lữ Phương, Quỹ của chúng ta muốn bày tỏ lòng kính trọng và sự tán đồng rõ ràng của mình đối với một người trí thức coi sự thẳng thắn đầy trách nhiệm, dũng cảm và trung chính của người trí thức, người cầm bút, nhất là trong giai đoạn hiện nay, là nghĩa vụ đạo đức hàng đầu của mình đối với xã hội và đất nước.

 

Người nhận giải ở cùng hạng mục với Lữ Phương là họa sĩ Phan Cẩm Thượng, một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian uyên bác và độc đáo. Trong số những người làm văn học nghệ thuật, dường như những người làm nghệ thuật tạo hình thường quan tâm, gắn bó và hiểu biết sâu hơn cả với văn hóa dân gian và dân tộc. Có thể chăng là qua sáng tạo của dân gian, họ đi tìm và nhận ra hồn cốt của văn hóa Việt, con người Việt. Tôi có một chị bạn họa sĩ, đã bỏ mười năm liền, chăm chú đi đo kích cỡ các đình chùa Việt Nam, để tìm ra cái mà chị gọi là “tỷ lệ vàng” ở các kiến trúc cổ ấy, nắm chắc được hằng số ấy rồi, chị bảo, thì vẽ gì cũng ra ngay Việt Nam, không thể nhầm. Phan Cẩm Thượng cũng vậy, ông tự tạo cho mình một lối sống rất đặc biệt, ông từng về sống hẳn trong chùa Bút Tháp hàng chục năm, gắn bó và am hiểu tới cặn kẽ vùng Thuận Thành Kinh Bắc vốn là một vùng đất cội nguồn của văn hóa Việt, thuộc lòng đến tỉ mỉ từng ngôi chùa cổ ở đấy, từng pho tượng cổ tuyệt đẹp đến lạ lùng trong bốn ngôi chùa Mây, Mưa, Sấm, Chớp là dấu tích xưa nhất của tín ngưỡng thuần Việt, khi chưa có ảnh hưởng của Phật giáo và của phương Bắc, cho đến các chùa nổi tiếng như Bút Tháp, Phật Tích, Bổ Đà v.v. Sau Bút Tháp, Thuận Thành, ông lại về sống hẳn nhiều năm ở vùng Mường, như một người ở ẩn, chìm đắm trong văn hóa Mường. Còn vùng văn hóa Sơn Tây nổi tiếng của Quang Dũng, thì Phan Cẩm Thượng vốn đã thuộc nằm lòng từ bé … Ông là người lang thang trong đời thường và trong văn hóa dân gian, say mê và đầy ý thức để cho sự sống ấy ngấm vào mình, thành máu thịt và thành trí tuệ, đến uyên bác. Có một số dịp được ông cho đi theo, tôi kinh ngạc và thú vị thấy các nhà sư ở các chùa vùng Kinh Bắc đều gọi ông là Thầy, thật sự kính trọng coi ông là Thầy. Tôi cũng kinh ngạc, thú vị khi thấy hầu như người dân nào gặp trên đường cũng là người quen thân của ông và cũng đều gọi ông là Thầy; còn ông thì có thể kể rành rọt với tôi lai lịch, tính cách của từng người … Ông đi nhiều, chăm chú nghe và nhìn, hết sức tò mò, quan sát kỹ và tinh, ghi chép, tích lũy, nghiền ngẫm, và vẽ. Rồi viết. Đến nay, Phan Cẩm Thượng đã có hơn 20 tác phẩm xuất bản, đương nhiên là về nghệ thuật tạo hình Việt Nam, đặc biệt là nghệ thuật tạo hình cổ và nghệ thuật dân gian Việt Nam, song đều là để từ đó cho ta một góc nhìn và một cách nhìn độc đáo dắt dẫn đến hiểu biết căn cốt về văn hóa Việt. Trong các tác phẩm viết của ông nổi bật một bộ sách quan trọng, đến nay đã cho ra mắt hai cuốn, hai cuốn tiếp theo sẽ hoàn thành trong khoảng 4 đến 5 năm tới. Ngay từ cuốn thứ nhất, có tên là “Văn minh vật chất của người Việt”, đã cho thấy đây có thể là một bộ sử của người Việt viết theo một cách riêng, một cách khác, không phải là lịch sử “lớn” của các triều đại, các ông vua, các cuộc chiến tranh và các vị tướng lừng danh, các cuộc cách mạng chính trị …, mà là lịch sử nhỏ, tầm thường, hằng ngày và trường kỳ của con người Việt, được kể qua nền văn minh vật chất của họ, hay nói giản dị hơn, qua “lời kể” của các đồ vật do họ làm ra để mà sinh tồn và phát triển. Vâng, các đồ vật do con người làm ra không hề câm, chúng có tiếng nói và có thể nghe được tiếng nói, lời kể của chúng, và đó là lời kể khách quan, chân thật nhất. Chẳng hạn cái cày của người Việt, vật liệu để làm ra nó, hình thù và sự biến đổi hình thù các bộ phận của nó, từ thân cày, láng cày, bắp cày, guốc cày, diệp cày, cho đến lưỡi cày, vai cày, trỗi cày, thừng kéo của cày … ,chúng kể cho ta biết, cụ thể, rõ ràng, vô cùng thật, về môi trường sống người Việt suốt mấy nghìn năm, trời đất, thổ nhưỡng, nắng mưa, ấm lạnh, bão tố, cả cái cách những con người đó tổ chức cộng đồng của mình để ứng phó với tất cả những thách thức ấy của tự nhiên, khi từ trên những vùng núi rừng rậm rạp và đất đá phía tây họ đổ xuống châu thổ sông Hồng, sông Mã bùn lầy nhão nhoẹt, rồi lại mấy nghìn năm nữa lặn lội suốt từ Bắc vào miền Trung khô cằn nắng gió, gặp gỡ đất mới, trời mới, người mới, học cày của người Chăm … rồi lại học cày của người Chân Lạp khi tràn tới được châu thổ sông Cửu Long màu mỡ phù sa … Cái cày biết nói. Đồ vật biết nói. Thậm chí chúng còn kể hết sức chính xác chẳng hạn về hình dáng, và cả cách chyển động, đi đứng của con người Việt từng nơi, từng thời. Rất khó quên đoạn Phan Cẩm Thượng viết về cái nối đất nung các bà chị ở quê ta vẫn dùng để ra ao ra sông lấy nước. Ông bảo sở dĩ hình thù nó tròn hơi méo một chút, không thể khác, nó to bằng chừng ấy không thể hơn, cũng không nhỏ hơn, là vì nó vừa bằng và giống đúng cái bụng chửa của người đàn bà Việt. Người thợ gốm Việt đã nhìn cái bụng chửa ấy mà nặn ra cái nồi đất kia …

Tiếp sau “Văn minh vật chất của người Việt” là cuốn “Tập tục đời người” với một phụ đề: “Văn hóa tập tục của người nông dân Việt Nam thế kỷ 19 và 20”. Phan Cẩm Thượng khẳng định trong mỗi người Việt Nam, cho đến hiện đại nhất hôm nay, đều có một người nông dân; 36 phố phường Hà Nội là từ các làng nghề nông thôn đồng bằng Bắc bộ tụ hội lên mà thành. Ông cũng định nghĩa tập tục là cái có trước pháp luật, trước cả hương ước, cũng là một kiểu luật của làng, do cộng đồng làng lập nên, mọi người bắt buộc phải tuân theo. Tập tục là cái có trước những quy định có tính bắt buộc đó; nó là cái người ta theo thói quen mà làm, mọi người vẫn làm thế ta cũng làm thế, làm thế là “phải” với mọi người và mình cũng cho là phải, người xưa đã quen, người nay chấp nhận, thấy phải chăng và tự nguyện. Nên nó là cái từ trong mà ra, không phải từ ngoài áp vào, từ trên ban xuống như hương ước, như luật. Nó thật về con người hơn. Thì ra với cuốn thứ hai này, Phan Cẩm Thượng tiếp tục bộ sử thật về người Việt của mình. Con đường đi bằng văn hóa của ông.

Tuy nhiên cũng có điều Phan Cẩm Thượng tập trung hiểu biết sâu vào vùng đất bắc, chủ yếu với văn hóa sông Hồng thật phong phú, chúng ta mong ông sẽ có những nổ lực tương tự đối với con người và đời sống cũng rất giàu có phương Nam.

Cuốn thứ ba có cái tên lạ “Mày là kẻ nào?”. Cách đây mấy thế kỷ, mày tao là cách xưng hô thông thường của người Việt, các giáo sĩ phương Tây đến truyền đạo và con chiên của gọi nhau đều như vậy. “Kẻ” có nghĩa là vùng đất. Kẻ Chợ là tên xưa của Hà Nội. “Mày là kẻ nào?” có nghĩa là mày ở đâu (mà tới đây)? Cuốn sách viết về những cuộc di chuyển của các mảng lớn con người trong suốt lịch sử tạo nên diện mạo nước ta ngày nay. Cuốn thứ tư, cuối cùng trong bộ sách này có tên là “Việt Nam, thế kỷ 19”. Tại sao lại là thế kỷ 19? Mọi sự vật thường tự bộc lộ ra sâu sắc, toàn diện nhất ở thời điểm bản lề. Ở Việt Nam thế kỷ 19 là một thời điểm như vậy, khi đất nước và xã hội từ cổ truyền chuyển sang hiện đại, bị và được xới tung lên tận nền tảng. Phan Cẩm Thượng muốn chọn đúng một thời điểm như vậy để cố gắng cung cấp bức chân dung chân thật nhất của người Việt, kết thúc bộ sử đặc biệt của ông.

Giải Phan Châu Trinh chào mừng ở Phan Cẩm Thượng một nhà văn hóa độc đáo và sâu sắc. Xin trân trọng chúc ông thật nhiều thành tựu mới.

Tân khoa của Giải Việt Nam học năm nay là hai nhà sử học Pháp Pierre Brocheux và Daniel Hémery, thường được coi là những người có thẩm quyền hơn cả về lịch sử Đông Dương và Việt Nam thời thuộc địa. Hai ông là tác giả của một loạt công trình quan trọng. Có thể kể, của Brocheux: các sách “Hồ Chí Minh”, in năm 2000; “Hồ Chí Minh, từ nhà cách mạng đến bức tranh thánh”, in năm 2003; “Một lịch sử kinh tế Việt Nam – Cây đòn gánh và chiếc xe tải” (2009); “Châu thổ sông Cửu Long, Sinh thái, Kinh tế và Cách mạng”; “Lịch sử Việt Nam. Quốc gia có sức chống chịu mạnh mẽ”  (2011); “Công cuộc giải thực dân thế kỷ 20” (2012); Lịch sử Đông Nam Á. Các cuộc nổi dây, các cuộc cải cách và các cuộc cách mạng”(2002) …; của Hémery: “Các nhà cách mạng Việt Nam và chính quyền thuộc địa ở Đông Dương. Cộng sản, Trokiste, Quốc gia chủ nghĩa ở Sài Gòn từ 1932 đến 1937” (1975); “Hướng dẫn nghiên cứu Việt Nam. Thư mục. Tư liệu và Thư viện ở Pháp” (1983); “Tình trạng nô lệ quyền năng. Một lịch sử về năng lượng”; “Tiến tới một lịch sử của phát triển. Các quốc gia, các xã hội, và phát triển” (1988); “Hồ Chí Minh. Từ Đông Dương đến Việt Nam” … Đặc biệt Pierre Brochueux và Daniel Hémery có một tác phẩm nổi tiếng cùng viết chung, “Đông Dương, một công cuộc thực dân hóa nhập nhằng, 1858-1954” (“Indochine, une colonisation ambiguë”) như lời bình luận của nhà nghiên cứu Philippe Papin, là một cuốn sách “được chín muồi một cách chậm rãi, phần cốt yếu đã được biên soạn từ 1987-1988, được viết lại hoàn toàn và bổ sung trước khi ra mắt (năm 1994)”. Philippe Papin cũng nói rằng hai tác giả “đặt lại thực tế thuộc địa mà tránh các con đường đã trở thành quen cũ của lối viết sử theo truyền thống chống thực dân, để tư duy về công cuộc thực dân hóa như là sự tiếp xúc – trong giao thoa, chồng chéo – giữa hai nền văn hóa theo những mối quan hệ bất bình đẳng song mọi sự về những mối quan hệ này còn chưa được nói đến hết ...”. Tôi có biết một bản dịch (còn chưa in) cuốn sách này lấy tên là “Đông dương, một nền thực dân nước đôi”. Trong tiếng Pháp còn có từ ambivalent có nghĩa là có tính hai chiều, hai mặt, lưỡng trị, tức nước đôi. Ở đây Brocheux và Hémery không nói ambivalent, hai ông nói ambiguë, nhập nhằng, nghĩa là còn nhiều chiều hơn, nhiều mặt hơn, phức tạp hơn, chồng chéo lên nhau, trái ngược nhau. Sự độc đáo, đặc sắc của tác phẩm này chính là ở chỗ nó cố lần ra cho hết các chiều khác nhau đó, phân tích cặn kẽ, khách quan, thực tế, với những cứ liệu chứng minh hết sức phong phú. Cả về phía những kẻ đi xâm lược và cai trị, động cơ kinh tế của chủ nghĩa tư bản ráo riết đi tìm thị trường, bóc lột, đàn áp, nô lệ hóa “đến thảm khốc” như Hoàng Xuân Hãn từng nói …  chen lẫn chồng chéo, mò mẫm, lẫn lộn với nền văn minh mà nó truyền bá, có ý thức hay nằm ngoài, thậm chí chống lại ý thức của chính nó, phức tạp, tinh tế, ở trong chính sách chung của chủ nghĩa thực dân và ở trong từng con người đi thực hiện nó; lẫn phía những người bị trị và xã hội của họ, bị bóc lột, đàn áp khốc liệt, tan vỡ và bị tha hóa … đồng thời cũng lại bước vào một quá trình hiện đại hóa đương nhiên là hạn chế, với sự hình thành một nền văn hóa mới và lớp tinh hoa hiện đại ở chính dân tộc bị trị, thậm chí như là để chuẩn bị cho sự phát triển lâu dài của đất nước sau khi nền thực dân đã bị đánh đổ …

Chính trong ý nghĩa đó mà cuốn sách viết về một thời đã khá xa này vẫn nhiều ý nghĩa thời sự cho suy nghĩ của chúng ta hôm nay. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Pierre Brocheux và Daniel Hémery thật thành công trong tác phẩm trằn trọc và tâm huyết này. Trong một bức thư rất ngắn gửi đến chúng ta, Brocheux, người “đã cống hiến 37 năm cuộc đời nhà giáo và nghiên cứu của mình cho lịch sử của dân tộc Việt Nam và số phận của quốc gia Việt Nam” viết: “Tôi càng dễ nhạy cảm hơn trong thức nhận về các công trình chép sử của tôi khi nó bắt nguồn từ đất nước mà tôi gọi là đất mẹ của tôi trong khi tổ quốc tôi là đất nước của cha tôi. Nhà Brocheux vốn thuộc một dòng họ vùng Normandie còn mẹ tôi lại thuộc dòng họ Trương mà cái nôi sinh thành là Phan Thiết và sau đó đã di cư về Vĩnh Long.” Vậy là ông viết về chính số phận “đất mẹ” của mình trong quan hệ lịch sử khó nhọc mà cũng giàu cả sinh sôi, với tổ quốc là đất nước của cha ông. Còn Hémery thì là người đã nói về vị tiền bối mà Quỹ chúng ta mang tên như sau: “Phan Châu Trinh là khuôn mặt sáng giá nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX vì ông đã biểu đạt một cách mạnh mẽ và sáng rõ nhất những nan đề mà các thế hệ người Việt Nam hôm nay còn phải tiếp tục đảm nhận.” 

Thật tiếc vì lý do sức khỏe và gia đình, hai nhà sử học đã cống hiến đặc sắc cho sự hiểu biết Việt Nam đã không thể có mặt cùng chúng ta. Xin gửi đến hai ông lời cám ơn chân thành của chúng ta.

●●●

Thưa...

Tiếp tục chương trình khởi đầu từ ba năm trước, năm nay Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh trân trọng tôn vinh nhà văn hóa Phạm Quỳnh là Danh nhân Văn hóa Việt Nam thời hiện đại.

Chúng ta đều biết, thường vẫn vậy, có những điều ta vẫn làm hằng ngày, chừng đơn giản và vô tư, như viết một bức thư, đọc một bài báo, thảo một công văn …, sang hơn chút nữa, cao hứng viết một bút ký hay một truyện ngắn, càng sang và cao hơn viết một tiểu thuyết, soạn một luận văn hay biên soạn một cuốn sách uyên bác về xã hội học, kinh tế học, triết học hay vật lý học thậm chí đến vật lý thiên văn, trình bày một lý thuyết mới về toán học cao cấp … với công cụ biểu đạt là tiếng Việt được viết bằng chữ quốc ngữ, loại chữ mà con ta đang học ở lớp một …. và coi chuyện có cái công cụ đó là đương nhiên rồi … nếu còn đôi chút băn khoăn là nắn nót viết sao cho chính xác, cho hay … Vậy mà hóa ra chuyện đó, cái công cụ rất tuyệt đó không hề là đương nhiên, và cũng chỉ là mới đây thôi, mặc dù tiếng Việt viết bằng vần chữ cái la-tinh mà ta gọi là chữ quốc ngữ đã được Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes chế ra từ cuối thế kỷ XVII, còn vô cùng khó khăn để tồn tại, thậm chí đã từng có thể bị xóa đi mất, nếu còn thì cũng chỉ các giáo sĩ dùng để giao tiếp với các con chiên một cách thô sơ bởi sức biểu đạt của nó còn rất nghèo nàn … Số phận của nó bấy giờ càng nguy nan hơn vì bị ép từ cả hai phía: sức phản kháng quyết liệt của cả một tầng lớp được coi là trí thức ưu đẳng và cũng là độc tôn của đất nước đã mấy nghìn năm sử dụng và coi chữ Hán là cao quý thiêng liêng của Thánh hiền, mất nó đi thì vị thế xã hội của họ cũng sụp đổ; bên kia là người Pháp thống trị, cho đến tận thời các Toàn quyền Paul Bert, Paul Doumer rồi Albert Sarraut, theo như nghiên cứu của Bernard Le Calloc’h, vẫn còn rất phân vân không biết nên chọn thứ chữ gì làm chữ chính thống cho thuộc địa này đây? Đã từng có chủ trương ưu tiên muốn dùng tiếng Pháp, chữ Pháp cho Việt Nam, như họ đã làm đối với các thuộc đia của họ ở châu Phi, cho đến tận ngày nay … Nhưng rồi khá tỉnh táo, từng người trong số họ dần hiểu làm như thế là “không thể và không thực tế đối với một đất nước có lịch sử phong phú và một nền văn minh đáng nể như Việt Nam”. Vả chăng họ cũng biết dùng chữ Pháp cho đất nước này thì chẳng qua chỉ là thay cho nó một ngoại ngữ này bằng một ngoại ngữ khác. Giữa chữ Hán và chữ Pháp, còn một thứ chữ: quốc ngữ. Và số phận đã thuộc về nó, nó đã được chọn. Chữ quốc ngữ đã sống sót như thế. Tuy nhiên vấn đề là sống, chứ không phải sống sót. Nó phải tự chứng tỏ cho kỳ được sức sống mạnh mẽ, vượt trội, đủ sức và đủ sức hơn cả, để cho Việt Nam tự biểu đạt mình trong cuộc cạnh tranh sinh tồn, thử nghĩ lại mà xem, khó khăn, khốc liệt biết bao nhiêu của dân tộc và nước nhà vào đầu thế kỷ XX. Cho nên, chúng tôi nghĩ, quả có một cuộc đấu tranh mất còn về mặt ngôn ngữ và chữ viết ở Việt Nam vào thời ấy, kiên định, quyết liệt, khôn khéo, thông minh, để hiện đại hóa tiếng Việt và lối viết bằng chữ quốc ngữ của nó, hoàn thiện nó thành vũ khí sắc bén của cuộc đấu tranh văn hóa, Và đã có những người chiến sĩ tiên phong của cuộc đấu tranh đó, những Pétrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi mà Quỹ chúng ta đã vinh danh trong mấy năm qua, và bao nhiêu người khác, trong đó nổi bật lên một người vào loại đặc sắc, có cống hiến rất quan trọng: người ấy là Phạm Quỳnh.

Phạm Quỳnh là một tài năng xuất chúng, 16 tuổi tốt nghiệp thủ khoa trường Thành chung Bảo hộ, ngay năm đó đã được tuyển làm viên chức trẻ nhất của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp nổi tiếng, tự học cả chữ Nho đến mức uyên thâm. Mẹ mất rất sớm, được bà nội nuôi ăn học, và về sau qua chính người vợ, mẹ vợ và gia đình bên vợ, những người phần lớn gần như mũ chữ, nhưng tuyệt giỏi, tuyệt hay trong văn hóa, lời ăn tiếng nói vô cùng giàu có của dân gian, chính họ đã dạy Phạm Quỳnh tình yêu say mê tiếng Việt, văn hóa Việt. Ông sống thanh bần, nghiêm cẩn. Con cháu ông kể: “… Cho đến những ngày cuối đời, bao giờ ông cũng giữ một nếp: học hành, viết lách, làm việc đều trước bàn thờ tổ tiên, như để tổ tiên hằng ngày chứng giám mọi điều mình nghĩ, mọi việc mình làm.”

Cuối năm 1914, do làm việc với Viễn Đông Bác Cổ mà có dịp găp Nguyễn Bá Trác bấy giờ là chủ bút của Đông Dương Tạp chí, ông bắt đầu cộng tác với tạp chí này, nhận ra sức mạnh và sự lợi hại đặc biệt của báo chí, có thể là vũ khí đầy hiệu lực cho cuộc đấu tranh để hiện đại hóa tiếng Việt và chữ quốc ngữ ông thiết tha ôm ấp. Nên năm 1916 khi Đông Dương tạp chí đóng cửa, ông đã lập ra tạp chí Nam Phong vào tháng Bảy năm 1917. Ngay từ số đầu tiên ra mắt, qua Nam Phong Phạm Quỳnh đã nói rõ rằng vấn đề văn hóa thật sự của chúng ta không phải là chọn lựa giữa trung thành với truyền thống Trung Hoa hay ngã theo văn hóa Pháp, mà là phải khẳng định vị trí của một nhân tố thứ ba xưa nay vẫn bị coi thường là ngôn ngữ dân tộc, để bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc. Duy có nghịch lý là ngay cả một tuyệt tác hàng đầu của văn học dân tộc là Truyện Kiều của Nguyễn Du lại cũng phải viết bằng chữ Nôm là một thứ chữ đặt theo mẫu hình chữ Hán, lại còn khó và rắc rối hơn. Vả chăng cho đến lúc bấy giờ, có thể nói Việt Nam không có một nền văn xuôi đích thực. Phải phổ biến và hoàn thiện, nâng cao chữ quốc ngữ để tạo các phương tiện cho ngôn ngữ dân tộc tự nâng mình lên thành một ngôn ngữ của công cuộc văn minh hóa, của một nền văn học toàn diện và nền văn hóa hiện đại. Tức sáng tạo ra một ngôn ngữ hiện đại. Đấy là một công việc khổng lồ. Phải tạo ra những từ mới và những cách diễn đạt mới, trong vài năm hàng trăm từ mới và cách diễn đạt mới phải và đã được đặt ra, phải biên tập một bộ từ điển, phải thống nhất các quy tắc ngữ pháp, cố định hệ thống từ vựng, mượn của tiếng Pháp các mẫu hình để tạo ra một ngôn ngữ khoa học, kỹ thuật, và cả pháp lý và triết học. Phải phổ cập các chuẩn mực chính tả, biên soạn các sách giáo khoa, chuyển sang chữ quốc ngữ các văn bản chữ Nôm và chữ Hán, định dạng các truyện kể và dân ca của văn học dân gian, cuối cùng thực hiện cho được một cách hài hòa nhất sự hòa hợp giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ trí thức. Nam Phong của Phạm Quỳnh và Hội Khai Trí Tiến Đức cũng do ông sáng lập và chủ trì đã đi đầu trong sự nghiệp to lớn này. Ông có niềm tin vững chắc rằng làm được tất cả những điều đó, thì sẽ đến ngày người Việt, nước Việt tìm lại được linh hồn của mình, và hơn nữa từ đó có thể có nhiều khả năng hơn để tìm lại nền độc lập.

Về con người chính trị của Phạm Quỳnh, hôm nay chúng tôi chỉ xin nhắc lại ở đây một báo cáo nói về ông của viên Khâm sứ Trung Kỳ Haelewyn ngày 18 tháng Hai 1945 gửi Toàn quyền Đông Dương Decoux và Trung tướng Mordant, Tổng Đại diện và là Chỉ huy quân đội Pháp trên toàn cõi Đông Dương, nguyên văn như sau:

Một lần nữa, viên Thượng thư Bộ Lại (tức Phạm Quỳnh) lại cực lực công kích việc trưng dụng thóc gạo cho Nhật Bản ... Tôi đã lưu ý Hoàng Đế Bảo đại rằng viên Thương thư Bộ Lại của Ngài đã lơ là các chức vụ của mình để nằng nặc đòi hỏi mở rộng các quyền của Viện Cơ Mật … Ông đòi hỏi chúng ta, trong thời hạn ngắn nhất, thực thi lời hứa thể hiện sự phát triển lũy tiến theo một tiến trình rõ rệt, và chúng ta phải cam kết trả lại cho Triều đình những biểu tượng của quyền uy tối thượng quốc gia bao trùm cả Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Phạm Quỳnh đe dọa khuyến khích các phong trào phản loạn, nếu trong những tháng tới chúng ta không cam kết thương thảo với Hoàng Đế Bảo Đại một quy chế chính trị mới, thay thế chế độ “bảo hộ” bằng một thể chế “Thịnh vượng chung” trong đó những chức vụ chính được giao cho người bản xứ. Nói cách khác, Phạm Quỳnh đòi chúng ta ban bố chế độ tự trị cho Trung Kỳ, Bắc Kỳ, bãi bỏ chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ và tạo dựng một quốc gia Việt Nam. Tôi xin lưu ý Ngài về điểm với bề ngoài lịch sự và chừng mực, ông này là một người quyết liệt tranh đấu cho Việt Nam độc lập và chúng ta không nên hy vọng làm dịu tinh thần ái quốc của ông ta, một tinh thần chân thành và không thể lay chuyển, bằng cách bổ nhiệm ông ta vào một chức vụ danh dự được hưởng nhiều bổng lộc. Cho đến nay, ông là một đối thủ hòa hoãn nhưng quyết liệt của nền thống trị Pháp … Chúng tôi xin chờ chỉ thị của Ngài.

Hôm nay Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh tôn vinh Danh nhân Văn hóa Việt Nam thời Hiện đại một con người như vậy, một nhà văn hóa lớn, một người yêu nước “không thể lay chuyển”.

Thưa …

Lần nữa chúng tôi xin nhắc lại điều vẫn nói cùng nhau những dịp này: Giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh luôn nhận thức chính sự nghiệp và uy tín của những người nhận giải làm nên uy tín và độ tin cậy cao của Giải. Xin trân trọng cám ơn các vị tân khoa của Giải 2018 vì điều đó, xin cám ơn các nhà khoa học và các nhà văn hóa đã sáng suốt đề cử và phản biện giúp chúng tôi trong quá trình làm giải. Xin cám ơn và xin chúc sức khỏe tất cả quý vị có mặt hôm nay.