ÔNG NGUYỄN NGHỊ

DIỄN TỪ NHẬN GIẢI DỊCH THUẬT

 

Trước hết, tôi xin chân thành cám ơn

      Bà Nguyễn Thị Bình, Chủ tịch Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh

      Quý vị trong ban tổ chức giải thưởng của Quỹ,

đã dành cho tôi giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh về dịch thuật trong lần trao giải thứ tám này.

1.         Đây là một vinh hạnh lớn đối với tôi, vốn vẫn thường xem việc dịch thuật là một công việc ít nhiều bạc bẽo : công sức bỏ ra thì nhiều, nhưng điều muốn đạt tới thì lại như chẳng bao giờ tới được. Một nhận định của Giáo sư Trần Văn Toàn tôi đọc được trong một bài viết nhỏ có tựa đề “Vấn đề phiên dịch các khái niệm đạo Thiên chúa sang tiếng Việt”, đăng trong cuốn Đạo Trung Tùy Bút (Nxb Tôn giáo, 2008, trg. 63) của ông có thể được xem như là một thực tế hầu như không ai phủ nhận : “Ai đã chú ý đến việc dịch thuật đều có thể nhận định rằng khi dịch từ tiếng này sang tiếng kia, mình không sao dịch cho hết ý nghĩa được, đồng thời bản dịch cũng mất đi nhiều ý vị”.

Nếu chỉ dịch “không hết ý nghĩa” hay “bản dịch mất đi nhiều ý vị” mà thôi, thì theo tôi, quả là còn may mắn lắm. Chúng ta đã chẳng quá quen với những nhận định, và khẳng định có tính cách phổ quát như muốn đúc kết kinh nghiệm lâu đời của người dịch hay của người đọc về công việc này : bên đông thì có câu : tam sao thất bản, bên tây thì có thành ngữ traduttore traditore / phiên dịch là bất trung. Thực tế, khi một tác phẩm dịch được xuất bản, những điều tốt đẹp nhất, mới mẻ nhất, những sáng kiến đáng quan tâm nhất mà người đọc phát hiện thấy trong tác phẩm đều thuộc tác giả của tác phẩm. Trong khi đó, phần dành cho người dịch là sự hồi hộp chờ đợi những sai sót, sai lầm, thậm chí phản nghĩa người đọc có thể sẽ phát hiện ra trong bản dịch của mình, và người dịch sẽ chỉ còn biết nhận sai sót và hứa sẽ sửa sai vào lần tái bản. Mà những lý do chủ quan và khách quan dẫn đến sai sót trong việc phiên dịch thì nhiều vô kể. Dẫu sao thì đó cũng là tâm trạng của tôi mỗi khi có một cuốn sách dịch được xuất bản.

Bởi vậy, được nhận giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh về dịch thuật, đối với tôi, không chỉ là một vinh hạnh lớn, mà còn là một sự khuyến khích hết sức quý báu : cuối cùng thì kết quả của công việc mình làm cũng được công khai nhìn nhận là có ích cho xã hội. 

2.         Chúng ta không thể không xem phần thưởng này như một sự công khai nhìn nhận rằng bản thân công việc phiên dịch vẫn còn là một công việc có ích cho xã hội và đáng được khuyến khích, cả trong thời đại ngày nay.

Có lẽ không ít người nghĩ rằng, với sự tiến bộ của loài người hiện nay, với sự phát triển khoa học kỹ thuật như không gì có thể ngăn lại được,  với tốc độ lan rộng của hiện tượng toàn cầu hóa như chúng ta đang chứng kiến, thì chẳng bao lâu nữa người ta sẽ tìm ra, tạo ra được một thứ ngôn ngữ chung, hay một cách thức diễn đạt mà ai cũng có thể hiểu được, hay phát minh ra được một cái máy dịch tinh vi, rồi cái máy này sẽ được phổ biến với tốc độ chỉ có thể bằng hay hơn tốc độ phổ biến của chiếc điện thoại cầm tay, và như vậy, tương lai của cái nghề dịch sách như đã được định đoạt rồi, việc phiên dịch sẽ sớm mai một thôi…

Xem ra, đây là giấc mơ không phải của riêng các tín đồ của khoa học, kỹ thuật, trong thời đại ngày nay, mà còn của cả tín đồ của tôn giáo. Đọc Thánh Kinh được viết cách nay cả hàng mấy ngàn năm, người ta đã có thể bắt gặp những chuyện kể, những hình ảnh, những biểu tượng có liên quan xa gần tới giấc mơ này, hay ít ra cũng cho phép người ta nghĩ tới cái ngày sẽ chấm dứt cái tình trạng con người chỉ có thể giao dịch với nhau, hiểu được nhau qua ngôn ngữ, chữ viết, âm thanh …khi một thời mới, một trật tự mới bắt đầu khi sự hài hòa được tái lập trong trời đất.  

Thánh Kinh có kể câu chuyện về việc loài người xây dựng một cái tháp có tên là Babel.  Tháp Babel được khởi sự xây dựng vào lúc “khắp nơi trên đất cùng một ngôn ngữ, từng tiếng như nhau” (Kn 11, 1). Nhưng ý định của việc xây cái tháp này lại là để đối phó với các trận lũ lụt có thể gây nên những đại họa như những đại họa mà trận Đại Hồng thủy đã gây nên trước đó như một hình phạt trên một cuộc sống bừa bãi không tôn trọng trật tự và sự hài hòa trong trời đất. Ý định này đã bị xem như một cái tội tự cao tự đại, một sự ngông cuồng, thách thức. Và Thượng đế phán : “Này hết thảy chúng là một dân duy nhất, một ngôn ngữ như nhau. Chúng đã bắt đầu làm thế, thì từ nay còn có mưu định nào mà chúng lại không có thể làm nổi. Nào! Ta xuống! Ở đó, Ta hãy làm cho ngôn ngữ chúng ra hỗn độn, lộn xộn, sao cho chúng không hiểu được ngôn ngữ của nhau’ (Kn11, 1-8).

Thánh Kinh tuy không kể tiếp, nhưng chúng ta có thể ngầm hiểu rằng, con người sau đó  đã cố gắng tìm cách để khắc phục tình trạng hỗn độn, lộn xộn trong ngôn ngữ này. Và chúng ta có thể nghĩ rằng một trong những cách thức họ đã tìm ra được có thể là sự phiên dịch qua đó người ta có thể hiểu được ý muốn của nhau, dĩ nhiên là không trọn vẹn.

Câu chuyện này được kể trong những trang đầu của cuốn sách đầu tiên của bộ Thánh Kinh. Và trong một cuốn sách khác đặt ở phần cuối của bộ Thánh Kinh này, chúng ta lại được nghe kể về một sự kiện hoàn toàn trái ngược đã xảy ra, vào một thời điểm được coi là buổi khởi đầu của một thế giới mới, của một trật tự mới, khi những người dân đến từ 17 miền có địa danh khác nhau và được liệt kê một cách tỉ mỉ, đều “chưng hửng, ngơ ngác” vì đều được nghe diễn văn của một vị thánh loan báo về một thời mới đã bắt đầu, trực tiếp trong chính ngôn ngữ của từng nhóm người mà tuyệt nhiên không thông qua phiên dịch.

Dầu vậy, và tuy cùng chia sẻ ít nhiều giấc mơ của cả hai nhóm tín đồ trên đây, tôi lại vẫn nghĩ rằng công việc phiên dịch, trong thời kỳ quá độ này, vẫn còn là một công việc cần thiết và trong nhiều trường hợp, gần như bắt buộc. Vẫn chính Giáo sư Trần Văn Toàn, trong bài viết nêu trên đây còn kể một câu chuyện xảy ra tại Cuộc hội thảo quốc tế được tổ chức vào đầu tháng 9 năm 1995 (3-6.9.1995) của Trung tâm Nghiên cứu và Trao đổi về sự truyền bá và hội nhập văn hoá của đạo Thiên Chúa (Centre de Recherches et d’Echanges sur la Diffusion et l’Inculturation du Christianisme, tức CREDIC, Lyon), đã khai mạc bằng một câu mà tác giả và có lẽ cũng là người tham dự cuộc hội thảo này, cho là chí lý: “Au commencement était la traduction” (Bước đầu tiên là phiên dịch), gợi lại câu đầu tiên của cuốn sách đặt ở đầu của bộ Thánh Kinh.

Nói chuyện về tương lai hay sự cần thiết của việc phiên dịch, sẽ hữu ích biết mấy khi gợi lên ở đây hình ảnh của những người thầy, những vị giáo sư hướng dẫn việc làm luận án hay đề tài nghiên cứu, mặc dù bận rộn với đủ thứ công việc, vẫn kiên trì và nhẫn nại cùng với các sinh viên hay học viên của mình, cặm cụi phiên dịch một công trình của một tác giả được xem là then chốt hay không thể bỏ qua đối với đề tài hay ngành chuyên môn mình đang theo đuổi.  Việc phiên dịch này, ít ra, cũng là một cách “đọc có hướng dẫn” để đọc tới nới, tới chốn, để qua đó, mở ra một cánh cửa, tiếp xúc với một lối nhìn mới, “nhìn sự vật, nhìn thế cuộc, nhìn đồng loại”, khám phá ra những cái khác và những cái khác này không thể không tác động trên thái độ, trên dự định của từng cá nhân và qua đó góp phần phát triển xã hội, nếu tôi hiểu không lầm, thì đó cũng là điều Quỹ Văn Hóa mang tên Phan Châu Trinh đang theo đuổi.

Một lần nữa, tôi xin chân thành cám ơn Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh, không phải chỉ vì đã dành cho tôi giải thưởng về dịch thuật, mà là vì mối quan tâm sâu sắc của quý vị dành cho một hoạt động mang đậm tính cách văn hóa là góp phần tạo nên những cơ hội ngày càng nhiều để ngày càng có nhiều người có thể tiếp xúc được với kho tàng văn hóa chung của nhân loại, qua đó góp phần xây dựng một xã hội tiến bộ.   

Xin kính chào